Khu mộ tổ được xây dựng quy mô. Cây Hương khu Mộ Tổ có hai câu đối:
Bên trái: TỔ TÔNG HOÀNG TỘC THIÊN NIÊN THỊNH.
Bên phải: LƯU TRUYỀN ĐỨC ĐẠO VẠN THẾ VINH
Bên phải là đời thứ nhất: Thượng Tổ là cụ ông Hoàng Công Em và cụ bà Chu Thị Lập.
Chính giữa là đời thứ hai: Cụ Tổ là cụ ông Hoàng Công Dũng và cụ bà Nông Thị Nở.
Bên trái là Cụ ngoại: Hứa Thị Tiền thân mẫu của Cụ Tổ bà Nông Thi Nở.
TỘC PHẢ HỌ HOÀNG (1)
Ở Tứ Thông thôn, Tử Chầm xã, Bắc Lũng Tổng nay là thôn Tứ Thông (xã Hợp Thành) và Làng Lầm (xã Tuân Lộ), huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.
(Chỉnh sửa, bổ sung 2018)
*****
(Ghi theo huyết thống dòng họ Hoàng, không phân biệt con trai hay con gái)
LỜI MỞ ĐẦU SỰ RA ĐỜI TỘC PHẢ HỌ HOÀNG.
Tộc phả là quyển sổ biên niên tên từ ông Thủy Tổ xuống lần lượt theo thế hệ (đời), thứ bậc tất cả những ngành trong họ cho đến các đời sau.
Còn Gia phả là quyển sổ ghi hết mọi điều cần thiết liên quan đến mỗi người trong tộc họ, gia đình.
Tộc phả và Gia phả này là thể hiện tâm tuệ của các thế hệ họ Hoàng ở Sơn Dương ghi nhớ Công Đức đối với Tiền nhân và Tổ tông: “Uống nước nhớ Nguồn” và “Cây chung ngàn nhánh sinh từ Gốc. Nước chảy muôn dòng phát tại Nguồn”. Đồng thời, khái quát về nguồn gốc, cội nguồn:“Chim có Tổ, Người có Tông, Như Cây có Cội, như Sông có Nguồn” của dòng họ Hoàng ở xã Hợp Thành và Tuân Lộ, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.
Trước đây, vào ngày 28 tháng 3 năm 1975, tức ngày 16 tháng 2 năm Ất Mão, thời “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà”, “hai cành” trưởng họ Hoàng ở thôn Rã Lá, xã Long Đống, huyện Bắc Sơn (Lạng Sơn) và thôn Tứ Thông (Bình Phú), xã Hợp Thành, huyện Sơn Dương (Tuyên Quang) đã:“Thống nhất sao lập lại “gia phả” dòng họ Hoàng Công ở Lạng Sơn và Tuyên Quang”. Người ghi chép Gia phả khi đó (năm Ất Mão), Tộc phả và Gia phả hiện này là Hoàng Nguyên Hồng, hậu duệ đời thứ Tám tính từ Cụ Thượng Thượng Tổ Hoàng Công Chỉnh trở xuống, là hậu duệ đời thứ sáu tính từ Thượng Tổ cụ Hoàng Công Em (ở Sơn Dương, Tuyên Quang). Nhưng do thời gian, sự ghi chép thời đó còn sơ sài, nêu sơ lược về các đời ở Bắc Sơn (Lạng Sơn) và Sơn Dương (Tuyên Quang). Chưa đi sâu ghi chép chi tiết và cụ thể các thế hệ họ Hoàng ở Lạng Sơn và Tuyên Quang.
Vì thế, nhánh Tộc phả họ Hoàng ở Sơn Dương (Tuyên Quang) ra đời để ghi chép và ghi nhớ công đức các bậc tiền nhân dòng họ Hoàng đã khai phá, định cư, lập nghiệp ở Làng Tứ Thông (xã Hợp Thành) và Làng Lầm (xã Tuân Lộ). Đây cũng chỉ là ghi chép ban đầu, sơ bộ từ Thủy Tổ – Thương Tổ họ Hoàng (Đời thứ nhất, thứ hai, thứ ba) và chi tiết cụ thể Đời thứ tư (Hoàng Công Em) người có công mở đường di cư sang Sơn Dương (Tuyên Quang) đến ngày nay (Nhâm Thìn-2012, bổ sung Bính Thân-2016, Mậu Tuất-2018); sau này, tộc trưởng các nhánh, các cành, các chi và hậu duệ từng gia đình trong họ Hoàng ở Hợp Thành và Tuân Lộ (Sơn Dương, Tuyên Quang) phải có trách nhiệm tiếp tục ghi chép chi tiết và cụ thể các đời (nội ngoại) kế tiếp cho hoàn chỉnh huyết thống dòng họ.
Tìm hiểu cội nguồn họ Hoàng là sự ghi nhớ Công Đức các bậc Tiền Nhân, là làm sống lại Quá khứ – Lịch sử – Văn hóa về gia phong, gia lễ và gia giáo dòng họ Hoàng. Từ đó, trong mỗi gia đình và từng người trong các thế hệ con cháu phải ghi sâu vào Tâm Ý của mình về nguồn gốc Tổ Tông, Cội Nguồn, Nòi Giống. Đặng, các thế hệ sau của dòng họ Hoàng biết tôn trọng, giữ gìn và phát huy nền nếp gia phong, gia lễ và gia giáo của dòng họ Hoàng.
Chính bởi thế, Tộc phả và Gia phả này chủ yếu ghi lại về biên niên tên, năm sinh, năm mất và vắn tắt sơ lược về sự kiện lịch sử và thời gian từ cụ Thượng Tổ Hoàng Công Em (từ Bắc Sơn, Lạng Sơn di cư sang Sơn Dương, Tuyên Quang) trở xuống, lần lượt theo các thế hệ (đời) và thứ bậc dòng họ Hoàng định cư ở Sơn Dương (Tuyên Quang).
Đây là sợi dây tâm linh và tình cảm “vô hình”, có sức sống và sức mạnh huyền bí, là nguyên khí và năng lượng của Tổ Tiên, là sự liên kết và kết nối Linh hồn (xưa) và Tinh thần (nay). Đó là Tâm linh chi phối và phù trợ (phần mềm) của những người đã khuất trong quá khứ lịch sử và những người hiện đang sống trong cùng một huyết thống dòng họ Hoàng.
Đây cũng là nền tảng truyền thống văn hóa, lịch sử, là di sản về nếp sống ăn ở, ứng xử trong dòng họ Hoàng. Các thế hệ hậu duệ sau phải biết tôn trọng và nhận rõ bổn phận thờ phụng, chăm lo chu đáo và vẹn tròn về mồ mả – âm phần của Tổ Tiên – Ông Cha trong cõi vĩnh hằng.
Mong sao, Tổ Tiên họ Hoàng phù hộ độ trì cho các thế hệ nối tiếp các đời con cháu họ Hoàng, giữ được bản lĩnh “Hữu chí Tất thành” (có chí sẽ làm nên) để trường tồn và phát triển.
Chỉ như thế các thế hệ họ Hoàng mới xứng đáng với“Tổ công Tông Đức thiên niên thịnh” (Công đức Tổ tiên nghìn năm thịnh);“Tử hiếu tôn hiền ức tải vinh”. (Con hiếu, cháu hiền muôn thủa vinh quang và trường tồn mãi mãi). Khi đó, Gốc Tổ Tông Hoàng tộc Bền chắc, Cây đại thụ Gia Tộc họ Hoàng sinh nhiều Cành, hữu Chi, vạn Lá, triệu Nụ, sai Hoa, đắc Trái; xứng danh với lời di huấn của Tổ tông dong họ Hoàng.
Khi sinh thời ông Hoàng Văn Bàn (con trai Cụ Hoàng Văn Văn, cháu nội Cụ Hoàng Văn Bài) cùng đàm đạo với ông thông gia Phạm Bá Tỵ (bố vợ anh Hoàng Văn Giang) về cuốn “Tộc phá họ Hoàng” này và cho rằng theo Hán Nho thì nên gọi là “Hoàng Tộc Phả” và ông Hoàng Văn Bàn có nói:
“Cội nguồn Tiên tổ, Hoàng tộc ta,
Chiến tranh thất lạc, mấy đời xa,
Cháu con nhớ Đức, sưu tầm lại.
Phả vàng quí giá, muôn đời sau.” (01/2013)
PHẦN THỨ NHẤT
NGUỒN GỐC HỌ HOÀNG Ở THÔN TỨ THÔNG.
Khi tôi còn rất nhỏ, đã nghe người lớn nói với nhau là nguồn gốc dòng họ Hoàng thôn Tứ Thông là từ Lạng Sơn. Câu chuyện chỉ có vậy. Lớn lên, tôi thoát ly bố mẹ, đi làm việc ở huyện từ lúc 15 tuổi. Thời điểm đó, mục tiêu là rèn luyện tâm trí, làm việc cho thật tốt, hy vọng được lãnh đạo và anh em trong cơ quan quý mến, sớm vào Đoàn, vào Đảng và được đi học chuyên nghiệp. Sau năm năm miệt mài công việc, vừa học, vừa ôn tập văn hóa thi vào trường chuyên nghiệp. Cuối năm 1963, tôi cũng đạt được các mục tiêu đó!
Tháng 8/1964 rời cơ quan huyện, đi nhập học ở Thành phố Thái Nguyên – Thủ phủ Khu tự trị Việt Bắc. Trung tâm văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Bắc. Từ đó, được tiếp xúc với các bạn học ở các vùng miền đất nước, từ Tây Bắc, Tây Nguyên, từ miền Nam ra Bắc tập kết và từ Lào sang, tôi bắt đầu có ý thức đi tìm nguồn gốc dòng họ Hoàng.
Ngày 25 tháng 01 năm 1975 (tức ngày 14 tháng 12 năm Giáp Dần) vợ tôi (Lê Thị Kim Thoa, Giáo viên Trường Sư phạm 10+3 Việt Bắc) sinh con trai đầu lòng. Chúng tôi đặt tên cho con là Hoàng Lê Tuấn, ghép họ Lê làm chữ đệm. Bên nội Hoàng Lê Tuấn là cháu trai trưởng họ Hoàng và bên ngoại cũng là cháu trai ngoại trưởng họ Lê. Bởi thế, đầu năm 1975, được sự giúp đỡ và chỉ dẫn của ông Hoàng Đình Thái (cùng họ Hoàng), là người Bắc Sơn (Lạng Sơn), công tác ở Sở Giáo dục Việt Bắc, tôi (cháu nội cụ Hoàng Văn Nhân) cùng ông Hoàng Văn Bàn (con cụ Hoàng Văn Văn) và các ông Hoàng Văn Sửu, Hoàng Văn Dần (con cụ Hoàng Văn Tài) bắt đầu hanhg hương đi tìm nguồn gốc họ Hoàng.
Hành trình đi tìm Nguồn Gốc họ Hoàng thật gian nan và hên xui. Thời bao cấp, xe khách rất xộc xệch, chen chúc, mua được vé đã khó, lên được xe đi đến nơi là cực khó, nhất là đi đông người. Từ Thành phố Thái Nguyên đi qua Võ Nhai sang Bắc Sơn (Lạng Sơn) đường lộ rải đá và cát sỏi, đi rất sóc. Thời đó, rừng núi, cây tự nhiên còn rậm rạp, đường lộ đi ngoằn nghèo, khúc khủy, dốc lên xuống, giữa hai bên núi đá cao; thời tiết tháng Giêng (sau Têt Nguyên đán Giáp Dần-1974 sang Ất Mão-1975) rất giá lạnh, nhiều sương mù, mưa phùn bao phủ suốt ngày; đi lại, lên xuống xe thật vất vả. Hành trình của bốn bác, chú và cháu lên xuống nhiều chặng, hỏi thăm nhiều người và cuối cùng cũng đến và tìm được nơi cần đến, đó là thôn Rã Lá, xã Long Đống, huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn.
Gặp gỡ, tiếp xúc, các bác họ Hoàng ở thôn Rã Lá cho biết, đúng là có một nhánh họ Hoàng Công sang Tuyên Quang. Các bác còn khẳng định, trước cách mạng tháng 8/1945, hai bên còn đi lại thăm hỏi mỗi dịp Tết đến, Xuân về hoặc mỗi khi có sự kiện hiếu, hỷ… Thế là mừng rồi! Từ đó, hai bên ngồi lại và thống nhất ghi chép về họ Hoàng Công.
Ngày 28 tháng 3 năm 1975, tức ngày 16 tháng 2 năm Ất Mão, dưới thời “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà”, hai cành trưởng họ Hoàng ở thôn Rã Lá, xã Long Đống, huyện Bắc Sơn (Lạng Sơn) và thôn Tứ Thông (Bình Phú), xã Hợp Thành, huyện Sơn Dương (Tuyên Quang) đã:“Thống nhất sao lập lại ‘gia phả’ dòng họ Hoàng Công ở Lạng Sơn và Tuyên Quang”.
Ông Hoàng Công Thử là Trưởng Tộc (Cành Trưởng) dòng họ Hoàng Công ở thôn Rã Lá, xã Long Đống, huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn và ông Hoàng Văn Bàn là Trưởng Tộc (Cành Thứ) ở thôn Tứ Thông, xã Hợp Thành, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang đã cùng nhau nhất trí xác định dòng họ Hoàng ở Tứ Thông là di cư từ thôn Rã Lá, xã Long Đống, huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn sang định cự ở Tứ Thông thôn, Hợp Thành xã, Sơn Dương huyện, Tuyên Quang tỉnh. Dân tộc Tày.
Riêng cành sang Tứ Thông, sau này con trai đổi tên đệm từ Công sang Văn hoặc dùng các tên đệm khác; các con gái ngoài chữ Thị, cũng lấy các tên đệm khác như con trai.
Hai ông Hoàng Công Thử và Hoàng Văn Bàn trên cơ sở các bài cúng Gia Tiên và vị trí các bát hương trên ban thờ tại nhà ông Hoàng Công Thử đã cùng nhau đối chiếu, xác lập và hệ thống, khái quát theo thời gian các đời họ Hoàng Công và Hoàng Văn ở thôn Rã Lá (Long Đống, Bắc Sơn, Lạng Sơn) và Tứ Thông (Hợp Thành, Sơn Dương, Tuyên Quang) có chung nguồn gốc như sau:
Đời thứ nhất
THỦY TỔ CHUNG HỌ HOÀNG (Bắc Sơn và Sơn Dương) là cụ HOÀNG CÔNG CHỈNH.
Cụ Hoàng Công Chỉnh là thủy tổ chung cho dòng họ Hoàng ở thôn Rã Lá (xã Long Đống, huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn) và thôn Tứ Thông (xã Hợp Thành, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang).
Sử sách không còn, chỉ truyền miệng lại và nói rằng, về đời Thủy Tổ là cụ ông Hoàng Công Chỉnh; không thấy nói đến cụ bà. Cụ Hoàng Công Chỉnh là người sống và định cư lâu đời, khởi thủy, lập nghiệp tại thôn Rã Lá, xã Long Đống, huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn từ ngàn xưa.
Về xuất xứ dòng tộc họ Hoàng ở thôn Rã Lá, xã Long Đống, huyện Bắc Sơn không còn ai biết là từ đâu, lý do gì di cư đến và cụ Thủy Tổ có mấy anh em. Tuy nhiên, nghe kể lại và biết được Cụ Hoàng Công Chỉnh (đời Thủy Tổ) có hai người con trai là Hoàng Công Tố và Hoàng Công Lục; cũng không thấy nói đến con gái.
Đời Thủy Tổ cụ Hoàng Công Chỉnh chỉ được các cụ cao niên trong họ Hoàng ở thôn Rã Lá, xã Long Đống, huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn kể lại như trên. Xin ghi lại để các thế hệ hậu duệ họ Hoàng biết nguồn gốc xuất sứ của chính mình hiện nay và tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu xuất xứ cụ Hoàng Công Chỉnh từ đâu di cư đến huyện Bắc Sơn Lạng Sơn (?)
Đời thứ hai
THƯỢNG TỔ CHUNG HỌ HOÀNG (ở Bắc Sơn và Sơn Dương) là cụ HOÀNG CÔNG TỐ và HOÀNG CÔNG LỤC
Ông Hoàng Công Tố và Hoàng Công Lục (con trai Thủy Tổ Hoàng Công Chỉnh) là gốc chung của Đời thứ Hai dòng họ Hoàng ở thôn Rã Lá (xã Long Đống, huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn) và thôn Tứ Thông (xã Hợp Thành, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang).
Sử sách cũng không có ghi chép, chỉ nghe kể lại cụ Thủy Tổ Hoàng Công Chỉnh có hai con trai là Hoàng Công Tố và Hoàng Công Lục.
Cụ Hoàng Công Tố (Thượng Tổ) không có con trai; cũng không nói đến vợ và có con gái hay không (?).
Người con thứ hai là cụ Hoàng Công Lục (Thượng Tổ) có hai người con trai là ông Hoàng Công Châu và Hoàng Công Em. Truyện kể cũng không thấy nói vợ của cụ Hoàng Công Lục và có con gái hay không có (!).
Đời thứ ba
CỤ TỔ HỌ HOÀNG: HOÀNG CÔNG CHÂU (Bắc Sơn) và HOÀNG CÔNG EM (Sơn Dương).
Đến đời thứ ba, ghi chép trên văn bản cũng không còn. Nghe truyền miệng kể lại, cụ Hoàng Công Lục (Thượng Tổ) có hai người con trai là Hoàng Công Châu và Hoàng Công Em, không nói về con gái có mấy người. Điều đặc biệt, đến đời này, các con của cụ Hoàng Công Lục có sự chia tách, di cư đến vùng đất mới sinh cơ, dựng nghiệp.
Theo kể lại, có rất nhiều lý do và nguyên nhân di cư khác nhau, chưa hiểu lý do nào là chính và nguyên cớ thế nào, mà họ Hoàng Công từ đây chia làm hai nhánh.
Nhánh thứ nhất: Con trai trưởng của cụ Hoàng Công Lục là ông Hoàng Công Châu (Đời thứ tư) tiếp tục ở lại sinh cơ, lập nghiệp cho đến ngày nay thôn ở Rã Lá, xã Long Đống, huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn.
Nhánh thứ hai: Con trai thứ của cụ Hoàng Công Lục là ông Hoàng Công Em (Đời thứ tư) di cư sang vùng rừng núi (Làng Quãng Thác Dẫng, Tức Thiện, Bình Yên) thượng huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, sau này chuyển về định cư, dựng nghiệp ở thôn Tứ Thông (xã Hợp Thành, huyên Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang) cho đến ngày nay.
Theo Gia Tổ họ Hoàng sau này có ghi: “Cụ ông Hoàng Công Em chạy giặc cờ đen (2) sang Tứ Thông thôn, Tử Chầm xã, Bắc Lũng tổng nay là thôn Bình Phú, xã Hợp Thành, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang và đổi chữ đệm từ Công sang Văn…” (trích Gia Tổ họ Hoàng Bắc Sơn và Sơn Dương, xác lập ngày 16 tháng Hai năm Ất Mão-1975).
Như vậy, về thời gian, đối chiếu với lịch sử, cách nay (năm 2010) khoảng 145 đến 140 năm, tức khoảng năm Ất Sửu (1865) đến năm Kỷ Tỵ (1869) cụ Hoàng Công Em di cư đến vùng rừng núi thượng huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.
Do chiến tranh loạn lạc, các thế hệ con và cháu của cụ Hoàng Công Em đã mất. Vì thế, không có ghi chép và không còn ai biết rõ và chính xác cụ Hoàng Công Em di cư từ Bắc Sơn sang Sơn Dương đi bằng con đường nào và vào thời gian năm, tháng bao nhiêu; địa danh lúc đầu ở nơi đâu và làm nghề gì; khi đó cụ Hoàng Công Em đã có vợ, có con hay chưa (?). Cụ kết duyên cùng cụ bà Chu Thị Lập khi nào, ở đâu, dòng tộc và gia thế ra sao, không ai biết.
Căn cứ vào các nơi có mộ táng của các cụ, các thế hệ con, cháu các đời sau và theo ông Hoàng Văn Bàn kể lại tối ngày 24-10-Quí Tỵ (2013) cho biết: Nghe kể lại, lúc đầu cụ Thượng Tổ Hoàng Công Em sang sinh cơ lập nghiệp ở vùng rừng núi Làng Quẵng (Thác Dẫng) Tức Thiện khi xưa, nay là vùng đất Bình Yên – Lương Thiện. Dấu tích lịch sử còn lại là các ngôi mộ của các cụ lúc đầu táng ở vùng đất gần Thác Dẫng (Tức Thiện), trên đồi cỏ gianh (còn gọi là cỏ tranh); sau này (khoảng từ 1956-1965), con cháu cụ Hoàng Văn Bài tiến hành cải táng di rời, chở bằng bè nứa còn gọi là mảng (bằng những cây nứa to ghép lại) xuôi sông Phó Đáy vào Cửa Ngòi (ngã ba sông Phó Đáy và ngòi Làng Sảo) chuyển lên bờ, khiêng tiểu sàng hài cốt các cụ, đi bộ theo đường mòn và đem về táng gần cây Đa thôn Làng Sảo; khi thực hiện phong trào hợp tác xã nông nghiệp, ông Khang Sự (Ma Văn Khang) khi đó là Chủ nhiệm HTX, đem máy xúc về san nền, xây dựng trụ sở HTX, húc mất hai nấm mộ (mả) của cụ ông Hoàng Công Em và cụ bà Chu Thị Lập. Vì thế, cụ Hoàng Công Em và cụ bà mất mộ. Sau này (25-10 âm lịch) chuyển về vùng đất trên Núi Bà Đen ở Tứ Thông ngày nay. Do đó, phải chiêu hồn lập mộ (không có cốt) cho cụ Hoàng Công Em và cụ bà Chu Thị Lập.
Ông Hoàng Văn Bàn (cháu cụ Hoàng Văn Bài) con trai cụ Hoàng Văn Văn, là người khởi xướng và đã cùng ông Hoàng Văn Dần, Hoàng Văn Sửu là con trai cụ Hoàng Văn Tài (em ông Hoàng Văn Văn) là những người đi di rời mộ của các cụ từ đồi cỏ gianh (Tức Thiện) về Làng Sảo, lên Tứ Thông ngày nay. Cũng theo kể lại, cụ Hoàng Công Em (Thượng Tổ ở Sơn Dương) kết duyên cùng cụ bà Chu Thị Lập sinh ra ông Hoàng Công Dũng (Cụ Tổ ở Sơn Dương). Về cụ bà Chu Thị Lập, cũng không có thông tin về năm sinh, quê quán, dân tộc và ngày mất. Tất cả sự việc chỉ được kể với nội dung sơ sài như trên.
Tóm lại, dòng họ Hoàng ở thôn Tứ Thông, xã Hợp Thành, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang có nguồn gốc là một Nhánh họ Hoàng từ thôn Rã Lá, xã Long Đống, huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn di cư sang cách nay khoảng hơn 145-140 năm (2010).
Về gốc tích, cội nguồn của họ Hoàng ở thôn Rã Lá, xã Long Đống, huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn thì chưa tìm được tài liệu và gia phả để chứng minh làm rõ, từ đâu đến và họ Hoàng chính hay họ Hoàng đổi từ họ Mạc ra. Để nhận được cho chính xác giữa hai Nhánh họ Hoàng ở thôn Rã Lá và thôn Tứ Thông, hai ông Hoàng Công Thử và Hoàng Văn Bàn đã viết chữ nho và thấy trùng khớp chữ 黃 là họ Hoàng. Như vậy là khớp, họ Hoàng hay Huỳnh đều lấy chữ nho là 黃, làm chuẩn để nhận họ. Đây là họ Hoàng chính (黃), không phải họ Mạc (黄). Theo ghi chép lịch sử thì họ Mạc (3) khi bị nhà Lê lấy lại ngôi báu, đổi họ Mạc thành họ Hoàng chữ Hoàng được viết bằng chữ Nho là 黄; không viết như chữ 黃, trong họ Hoàng.
Hoàng chính (黃), Hoàng Mạc (黄).

