PHẦN THỨ TƯ
TỘC THỨ HOÀNG VĂN THÔNG Ở XÃ TUÂN LỘ, SƠN DƯƠNG, TUYÊN QUANG.
Như trên đã trình bày, từ đây các thế hệ con cháu họ Hoàng thuộc Tộc Thứ ở Tuân Lộ thống nhất xác định cụ Hoàng Văn Thông (Đời thứ 3) là Cụ Tổ-Gốc Phả Tộc Nhánh họ Hoàng ở Làng Lầm để xác định mối quan hệ và ứng xử giữa các Cành và Chi trong họ Hoàng ở Làng Lầm, xã Tuân Lộ, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.
Cụ ông Hoàng Văn Thông sinh năm 1881 (Cụ mất năm 1950, thọ 69 tuổi). Trước Cách mạnh Tháng Tám 1945, cụ làm xã dịch Làng Lầm-Tuân Lộ. Về lý do cụ ông Hoàng Văn Thông định cư ở Làng Lầm. Theo chuyện kể: « Cụ ông Hoàng Văn Thông, khi còn trẻ đi lính, yêu và lấy cụ bà Nông Thị Y, con gái một dòng họ khá giả và có chức sắc, uy quyền ở Thôn Bẫu-Làng Lầm (Tuân Lộ). Khi hết hạn lính, gia đình bố mẹ vợ, vì thương con gái (Nông Thị Y), nên đón con rể (Hoàng Văn Thông) về sinh sống, làm ăn tại địa phương. Từ đó, Tộc thứ Hoàng Văn Thông định cự tại Thôn Bẫu- Làng Lầm xã Tuân Lộ cho đến nay ». (HG ghi theo lời kể của bà Hoàng Thị Hiền cháu nội cụ Hoàng Văn Thông chiều ngày 21/7/2007 tức 8/6/Đinh Hợi)
Về cụ bà Nông Thị Y sinh 1883 (mất 1977, thọ 94 tuổi). Theo ông Hoàng Văn Chích (con út cụ Hoàng Văn Thông) cho biết: “Mẹ ông là cụ Nông Thị Y thời xưa bị giặc Cờ đen bắt, sau đó được Cụ Tuần Đạt người làng Lầm là Tướng giặc Cờ đen đã giải thoát cho cụ bà Nông Thị Y và nhận là em nuôi. Sau đó, mới gả cho cụ ông Hoàng Văn Thông. Ông Đường là cháu gọi cụ bà Nông Thị Y là bà cô, không phải ông Đường giải thoát cho cụ bà Nông Thị Y » (HG ghi lại lúc 18 giờ ngày 08/01/2011, tức Mùng 5 tháng Chạp năm Canh Dần)
Cụ ông Hoàng Văn Thông kết duyên với cụ bà Nông Thị Y sinh ra Đời thứ 4 ở Tuân Lộ gồm các cành và chi sau:
I. CÀNH BÀ HOÀNG THỊ ƯỚC (Đời thứ 4)
Bà Hoàng Thị Ước là con gái đầu của cụ ông Hoàng Văn Thông và cụ bà Nông Thị Y (Đời thứ 3). Bà Hoàng Thị Ước kết hôn với ông Nông Văn Thìn ở Ao Then, xã Hợp Hoà cùng huyện Sơn Dương. Hai ông bà sinh được hai người con:
1. Chi ông NÔNG VĂN NGỐC (Đời thứ 5)
Ông Nông Văn Ngốc, vợ là bà Nông Thị Lợi, sinh được 5 người con Đời thứ 6 gồm có:
(1) Nông Văn Thân (mất khi con trẻ).
(2) Nông Thị Hợp
(3) Nông Văn Tình
(4) Nông Văn Nghĩa
(5) Nông Văn Ngân.
2. Chi bà NÔNG THỊ NGUYÊN (Đời thứ 5).
Bà Nông Thị Nguyên; chồng là Nguyễn Đức Thuần (đã mất) sinh được 6 người con đời thứ 6 gồm có:
(1) Nguyễn Thị Loan
(2) Nguyễn Thị Tý
(3) Nguyễn Thị Lành
(4) Nguyễn Thị Vui (mất)
(5) Nguyễn Đức Vẻ
(6) Nguyễn Thị Tuyển
II.CÀNH CỤ ÔNG HOÀNG VĂN THẠCH (Đời thứ 4)
Cụ ông Hoàng Văn Thạch mất ngày 16 tháng 6 âm lịch. Cụ ông Hoàng Văn Thạch kết hôn với cụ bà Mè Thị Ỷ (bà cả mất), lấy bà thứ hai là bà Trần Thị Tôn (đã mất). Hai cụ không có con đẻ. Nhận một con nuôi đặt tên là Hoàng Văn Mót.
1.Chi ông HOÀNG VĂN MÓT (Đời thứ 5)
Ông Hoàng Văn Mót kết duyên với bà Đinh Thị Út sinh được 10 người đời thứ 6 gồm có:
(1) Hoàng Văn Dậu
(2) Hoàng Thị Tuất
(3) Hoàng Thị Hải
(4) Hoàng Thị Lan
(5) Hoàng Thị Phượng
(6) Hoàng Thị Xinh
(7) Hoàng Thị Cần
(8) Hoàng Thị Hương
(9) Hoàng Văn Mạnh
(10) Hoàng Văn Hùng
III. CÀNH CỤ ÔNG HOÀNG VĂN KIM (Đời thứ 4)
Về cụ ông Hoàng Văn Kim, mất ngày 9 tháng 2 âm lich (năm 1971). Cụ ông Hoàng Văn Kim kết duyên cùng cụ bà Lương Thị Đài; Cụ bà mất ngày 2 tháng 6 âm lich. Cụ ông Hoàng Văn Kim và cụ bà Lương Thị Đài sinh được ba người con:
1.Chi ông HOÀNG VĂN CHỈ (Đời thứ 5)
Ông Hoàng Văn Chỉ sinh 1936, kết duyên với bà Hoàng Thị Điệp mất ngày mùng 4 tháng Giêng âm lịch (1986). Ông bà sinh được 9 người:
(1) Hoàng Xuân Cung (Đời thứ 6) sinh 1960, vợ Nguyễn Thị Thùy (1964) quê ở thôn Tân Lập, xã Tân Trào, huyện Sơn Dương, sinh ra Đời thứ 7 được bốn người con:
– Con gái là Hoàng Thị Quỳnh sinh năm 1985-Ất Sửu đi lấy chồng xã Ngọc Quan, Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ.
– Con trai là Hoàng Văn Cương, sinh năm 1987-Đinh Mão, vợ là Lý Thị Thơm sinh năm 1987 người xã Khánh Khê, huyên Văn Quan, Lạng Sơn, sinh ra Hoàng Bảo Nam (Đời thứ 8) tháng 6/2011-Tân Mão.
– Con trai là Hoàng Xuân Cường, sinh năm 1991-Tân Mùi sinh viên Khoa Tài nguyên-Môi trường Đại hoc Nông Lâm Thái Nguyên.
– Con gái là Hoàng Thị Trung Kiên,sinh năm 1994-Giáp Tuất.
(2) Hoàng Văn Cấp (Đời thứ 6) sinh 1964, vợ là Lương Thị Đề sinh 1964 ở Kỳ Lâm, Sơn Dương hiên nay gia đình ở xã Tuân Lộ. Hoàng Văn Cấp và Lương Thị Đề sinh ra Đời thứ 7:
– Hoàng Văn Quyền, sinh 1991-Tân Mùi.
– Hoàng Văn Thế, sinh 1993-Quí Dậu.
– Hoàng Thế Anh, sinh 1995-Ất Hợi.
(3) Hoàng Văn Việt (Đời thứ 6) sinh 1970, gia đình ở xã Tuân Lộ, huyện Sơn Dương, vợ là Dịch Thị Hường (1971) người ở thôn Cầu đá, xã Hợp Hòa. Hoàng Văn Việt và Dịch Thị Hường sinh ra Đơi thứ 7:
– Hoàng Văn Long, sinh 1991-Tân Mùi.
– Hoàng Văn Xuyên, sinh 1993-Quí Dậu.
(4) Hoàng Thị Đa (Đời thứ 6) sinh 1972, chồng là Phan Văn Võ sinh 1968 ở xã Tuân Lộ, Sơn Dương, Tuyên Quang.
(5) Hoàng Văn Cảnh (Đời thứ 6) sinh 1974, vợ là Trịnh Thị Nguyệt (1977) ở huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng. Hiện nay, gia đình ở thôn 8 xã Tuân Lộ. Hoàng Văn Cảnh và Trịnh Thị Nguyệt sinh ra Đời thứ 7:
– Hoàng Mạnh Duy, sinh năm 1997-Đinh Sửu,
– Hoàng Văn Hiếu, sinh 2000-Canh Thìn,
(6) Hoàng Văn Giới (Đời thứ 6) sinh 1976, vợ là Nông Thị Hương (1978) hiện nay ở xã Tuân Lộ, huyện Sơn Dương, Tuyên Quang. Hoàng Văn Giới và Nông Thị Hương sinh ra Đời thứ 7:
– Hoàng Văn Nghiệp, sinh 2000-Canh Thìn,
– Hoàng Ngọc Minh, sinh 2002-Nhâm Ngọ.
(7) Hoàng Thị Thủy (Đời thứ 6) sinh 1982; chồng là Đỗ Đức Thề sinh năm 1977.
(8) Hoàng Văn Cành (Đời thứ 6) sinh 1979
(9) Hoàng Văn Sản (Đời thứ 6) sinh 1984, vợ là Phan Thị Thanh Kim Sang sinh 1988. Hiện nay ở số Nhà 130 đường Khu phố 6, phường Phước Long, Thị trấn Phước Bình, tỉnh Bình Phước.
2. Chi bà HOÀNG THỊ HO (Đời thứ 5)
Bà Hoàng Thị Ho, kết duyên với ông Hoàng Văn Khóa. Ông bà sinh được 9 người con Đời thứ 6:
(1) Hoàng Thị Đào
(2) Hoàng Văn Loan
(3) Hoàng Thị Phượng
(4) Hoàng Văn Hải
(5) Hoàng Văn Hưng
(6) Hoàng Thị Huê,
(7) Hoàng Thị Hòa
(8) Hoàng Văn Phương
(9) Hoàng Văn Tuyết.
3. Chi ông HOÀNG VĂN THÀNH (Đời thứ 5)
Ông Hoàng Văn Thành sinh 1945, mất năm 2011 (tai nạn xe máy), kết hôn với bà Đàm Thị Nhã sinh 1948. Ông Hoàng Văn Thành và bà Đàm Thị Nhã sinh được 6 người con:
(1) Hoàng Văn Tính (Tình) Đời thứ 6 sinh ngày 01/6/1971, vợ là Lôi Thị Hải (sinh ngày 05/11/1973) sinh ra Đời thứ 7:
– Hoàng Văn Trọng, sinh 13/7/1991-Tân Mùi.
– Hoàng Văn Đức, sinh 15/8/1995-Ất Hợi.
(2) Hoàng Văn Nhân (Nhâm) Đời thứ 6 sinh tháng 7/1973, vợ là Hoàng Thị Oanh sinh tháng 8/1976. Hoàng Văn Nhân (Nhâm) và Hoàng Thị Oanh sinh ra Đời thứ 7:
– Hoàng Thị Xinh, sinh tháng 8/1998-Mậu Dần,
– Hoàng Thế Lực, sinh tháng 10/2001-Tân Tỵ.
(3) Hoàng Thị Hạnh (Đời thứ 6) sinh 1975, hiện nay ở Đông Nai.
(4) Hoàng Thị Hà (Đời thứ 6) sinh 1977, hiện nay ở Đông Nai.
(5) Hoàng Văn Lộc (Đời thứ 6) sinh 1979, vợ Bùi Thị Yến (1983)
(6) Hoàng Văn Mạnh (Đời thứ 6) sinh tháng 9/1981 vợ là Lê Thị Lụa sinh 1985. Hoàng Văn Mạnh và Lê Thị Lụa sinh ra Đời thứ 7:
– Hoàng Thị Vân Anh, sinh tháng 12/2005-Ất Dậu,
– Hoàng Quang Thắng, sinh tháng 7/2008-Mậu Tý.
IV.CÀNH CỤ BÀ HOÀNG THỊ HẠC (Đời thứ 4)
Cụ bà Hoàng Thị Hạc, kết hôn với cụ ông Đinh Văn Hồi. Hai cụ Hoàng Thị Hạc và Đinh Văn Hồi sinh ra:
1. Chi ông ĐINH VĂN BẰNG (Đời thứ 5)
Ông Đinh Văn Bằng còn nhỏ gọi là Gan, kết hôn với bà Triệu Thị Xuân. Ông bà sinh được 7 người con Đời thứ 6:
(1) Đinh Văn Sắc
(2) Đinh Văn Minh
(3) Đinh Thị Liên
(4) Đinh Văn Lạc
(5) Đinh Thị Loan
(6) Đinh Văn Khải
(7) Đinh Văn Đạt.
2. Chi ông ĐINH VĂN BÌNH (Đời thứ 5)
Ông Đinh Văn Bình, kết hôn với bà Phạm Thị Yến. Ông bà sinh được 7 người con Đời thứ 6:
(1) Đinh Thị Thúy
(2) Định Thị Vân
(3) Đinh Văn Hiếu
(4) Đinh Thị Kiều
(5) Đinh Văn Nghĩa
(6) Đinh Thị Chung
(7) Đinh Văn Tình.
3. Chi bà ĐINH THI LAI (Đời thứ 5).
Bà Đinh Thị Lai, kết hôn với ông Đoàn Văn Trọng. Ông bà sinh được 4 người con Đời thứ 6:
(1) Đoàn Thị Lan
(2) Đoàn Văn Dũng
(3) Đoàn Văn Chiến
(4) Đoàn Văn Khu.
4. Chi ông ĐINH VĂN HIỆP (Đời thứ 5).
Ông Đinh Văn Hiệp, vợ là bà Thủy sinh 8 người con Đời thứ 6:
(1) Đinh Thị Thảo
(2) Đinh Văn Thức
(3) Đinh Văn Tỉnh
(4) Định Thị Tấn
(5) Đinh Thị Tuệ,
(6) Đinh Thị Tuyết
(7) Đinh Văn Tịnh
(8) Đinh Văn Thiện.
5. Chi bà ĐINH THỊ ĐỊNH (Đời thứ 5)
Bà Đinh Thị Định, kết hôn với ông Lương Văn Lý (xã Hợp Hòa), sinh được 7 người con Đời thứ 6 (6 trai, 1 gái)
(1) Đinh Văn Sự
(2) Đinnh Văn Hảo
(3) Đinh Văn Nguyên
(4) Đinh Văn Thuần
(5) Đinh Văn Hoạt
(6) Đinh Văn Chinh
(7) Đinh Thị Bảy.
6. Chi ông ĐINH VĂN KHỊT (Đời thứ 5)
Ông Đinh Văn Khịt, kết hôn với bà Đào Thị Liên (Bắc Thái) sinh được 08 người con Đời thứ 6:
(1) Đinh Thị Ánh
(2) Đinh Văn Dương
(3) Đinh Thị Yến
Với bà Nguyễn Thị Ngọc sinh được:
(4) Đinh Thi Anh
(5) Đinh Văn Dưỡng
(6) Đinh Văn Thưởng
(7) Đinh Văn Thực
(8) Đinh Văn Quyên
7. Chi bà ĐINH THỊ ĐỎ (Đời thứ 5)
Con là Hiếu
8. Chi ông ĐINH VĂN ĐEN (Đời thứ 5)
Ông Đinh Văn Đen kết hôn với bà Nguyễn Thị Xuân, sinh được 3 người con Đời thứ 6 :
(1) Đinh Thị Hạnh,
(2) Đinh Thị Trang,
(3) Đinh Văn Vũ.
9. Chi ông ĐINH VĂN ĐÀO (Đời thứ 5).
Ông Đinh Văn Đào kết hôn với bà Nguyễn Thị Tình, sinh được hai người cọn Đời thứ 6 :
(1) Đinh Văn Hà,
(2) Đinh Văn Bắc
V. CÀNH CỤ ÔNG HOÀNG VĂN CHÍCH (Đời thứ 4)
Cụ ông Hoàng Văn Chích sinh ngày 20 tháng 2 năm 1927, ở Thôn Bẫu, Làng Lầm, xã Tuân Lộ. Cụ ông Hoàng Văn Chích tham gia công tác ở xã Tuân Lộ từ tháng 12/1946 (vào Đảng 1/5/1950) đến tháng 8/1985 nghỉ hữu. Cụ Hoàng Văn Chích là một trong những cán bộ chủ chốt (Bí thư Thanh niên, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND) của xã Tuân Lộ trong nhiều năm, có thời kỳ là Chủ nhiệm HTX ; nhiều khóa tham gia cấp ủy huyện Sơn Dương (huyện ủy viên); đã được tặng Huy hiệu 40 năm, 50 năm, 60 năm tuổi Đảng ; được tặng huân chương, huy chương của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Cụ ông Hoàng Văn Chích kết duyên với cụ bà Hoàng Thị Tiên (sinh 1934). Cụ ông Hoàng Văn Chích và Cụ bà Hoàng Thị Tiên sống cùng vợ chồng con trai là Hoàng Văn Tuyển.
Cụ bà Hoàng Thị Tiên mất ngày mùng 7 tháng 2 năm Bính Tuất, tức ngày 6/3/2006. Ngày giỗ của cụ bà Hoàng Thị Tiên là Mùng 7 tháng Hai âm lịch hàng năm.
Hai cụ Hoàng Văn Chích và Hoàng Thị Tiên sinh được 7 người con :
1. Chi bà HOÀNG THỊ HIỀN (Đời thứ 5)
Bà Hoàng Thị Hiền sinh năm 1953, kết hôn với ông Nguyễn Văn Hào sinh năm 1952. Ông bà sinh được 7 người con Đời thứ 6:
(1) Nguyễn Văn Hùng sinh năm 1975, vợ là Phạm Thị Hạ, có 3 con gái.
(2) Nguyễn Thị Hà sinh năm 1977
(3) Nguyễn Văn Huân (1979), vợ Nguyễn Thị Lan (1979), có 2 con trai.
(4) Nguyễn Văn Hoan sinh 1981, có 2 con trai.
(5) Nguyễn Văn Hoàn sinh 1983, vợ là Đặng Thị Nhung sinh 1986.
(6) Nguyễn Thị Hiểu (1986), chồng Hoàng Văn Thắng (1982), 2 con gái.
(7) Nguyễn Văn Hiến sinh 1988, vợ là Nguyễn Thị Thương sinh 1986.
2. Chi bà HOÀNG THỊ HẬU (Đời thứ 5)
Bà Hoàng Thị Hậu sinh năm 1959, kết hôn với ông Đại Văn Muộn. Ông bà sinh được 04 người con Đời thứ 6:
(1) Đại Thị Hương sinh năm 1984
(2) Đại Thị Trang sinh năm 1986
(3) Đại Văn Minh sinh năm 1988
(4) Đại Thị Thanh sinh năm 1990
3. Chi ông HOÀNG VĂN ĐƯỢC (sinh 1962- mất 1986)
4. Chi ông HOÀNG VĂN TUYỂN (Đời thứ 5).
Ông Hoàng Văn Tuyển sinh năm 1965 kết hôn với bà Đinh Thị Khanh sinh năm 1965. Ông bà sinh được 04 người con (1 gái, 3 trai):
(1) Hoàng Văn Quyết (đời thứ 6) sinh năm 1984, mất năm 2009, vợ là Nguyễn Thị Thảo sinh 1985 (quê Ngọc Đường, Hà Giang). Ông Hoàng Văn Quyết mất 15/4/AL (2009) do tai nạn ô tô.
Ông Hoàng Văn Quyết và bà Nguyễn Thị Thảo sinh ra Hoàng Nguyễn Ngọc Ánh (Đời thứ 7) năm 2008 (Mậu Tý).
(2) Hoàng Văn Đoàn (Đời thứ 6) sinh năm 1986, vợ là Lưu Thị Yến sinh năm 1988.
(3) Hoàng Thị Duyên (Uyên) Đời thứ 6 sinh 1988, chồng là Nguyễn Văn Thìn. Hoàng Thị Duyên (Uyên) và Nguyễn Văn Thìn sinh ra Nguyễn Hoàng Thúy Anh (Đời thứ 7) năm 2010.
(4) Hoàng Văn Tuyên (Đời thứ 6) sinh 1989, vợ là Hà Thị Chuyên sinh 1993. Hiện nay làm việc ở tỉnh Hà Giang.
5. Chi bà HOÀNG THỊ HOA (Đời thứ 5).
Bà Hoàng Thị Hoa sinh năm 1967 kết hôn với ông Ma Văn Phòng ở Cầu Đá, xã Hợp Hòa. Ông bà sinh được 4 người con (1 trai, 3 gái) Đời thứ 6:
(1) Ma Thị Hồng,
(2) Ma Thị Hạnh,
(3) Ma Thị Hiên,
(4) Ma Văn Hiếu.
6. Chi ông HOÀNG VĂN HƯỜNG (Đời thứ 5).
Ông Hoàng Văn Hương sinh năm 1972, mất năm 2009 do tai nạn giao thông. Ông Hoàng Văn Hương kết hôn với bà Phạm Thị Hiểu sinh 1970. Ông bà sinh được 2 người con Đời thứ 6:
(1) Hoàng Văn Quang sinh 1991.
(2) Hoàng Thị Phương sinh 1993, chồng Nguyễn Văn Lập, ở Đồng Tâm, Tuân Lộ, Sơn Dương, Tuyên Quang
7. Chi ông HOÀNG VĂN TIẾN (Đời thứ 5)
Ông Hoàng Văn Tiến sinh năm 1975, kết hôn với bà Nguyễn Thị Hoa sinh 1976. Ông bà sinh được ba người con Đời thứ 6:
(1) Hoàng Văn Đạt (1997-2001)
(2). Hoàng Văn Thức (2003)
(3) Hoàng Thị Dung (2005).
LỜI KẾT
Trên đây là những ghi chép sơ lược về Phả Tộc họ Hoàng ở Tứ Thông và Tuân Lộ. Đó là những nét cơ bản ban đầu ghi theo huyết thống (không phân biệt con gái hay con trai) từ thống kê ở các Nhánh, các Cành, các Chi. Do thời gian và hạn chế về thông tin, tư liệu, nên chưa đi sâu được chi tiết nghề nghiệp, công danh và sự thành đạt của các thế hệ hậu duệ. Do đó, từ những nét cơ bản trên, đề nghị Trưởng họ Hoàng các Nhánh, các Cành, các Chi căn cứ Tộc phả họ Hoàng này mà bổ sung ghi chép cụ thể và chi tiết nội ngoại cho đầy đủ và chính xác. Trên cơ sở đó sẽ hoàn chỉnh Tộc Phả họ Hoàng ở Hợp Thành và Tuân Lộ lưu truyền cho các thế hệ mai sau./.
* Sưu tầm và biên tập
Khởi thảo ngày 15/11/2010 tại Tây Hồ-Hà Nội. Chỉnh sửa và bổ sung tháng 0/2016
Luật sư Hoàng Nguyên Hồng (Hậu duệ đời thứ 6)
* Chỉnh sửa và bổ sung Cử nhân Hoàng Văn Hào (Hậu duệ đời thứ 6)
*Hoàn chỉnh và in ấn (lần 1) ngày 03/12/2012: Thạc sỹ Hoàng Lan Hương (hậu duệ đời thứ 7):
* Đăng trên website: hoanghong.net
Phụ lục
A. TƯ LIỆU THAM KHẢO
I. Nguồn tư liệu
1. Theo bản Gia Tổ họ Hoàng lập tại thôn Rã Lá, xã Long Đống, huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn ngày 28/3/1975 tức ngày 16/2/năm Ất Mão.
2. Sổ ghi chép của ông Hoàng Văn Duyên (đời thứ 5); ý kiến trực tiếp kể của cụ Hoàng Văn Chích (đời thứ 4) và chỉnh lý cùng ông Hoàng Văn Tuyển (đời thứ 5) tại nhà cụ Hoàng Văn Chích ở Tuân Lộ. Thực tế thờ cúng trong các gia đình con cháu họ Hoàng ở Tứ Thông và Làng Lầm.
3. Thống kê danh sách tổng hợp các thế hệ họ Hoàng ở Tứ Thông và Tuân Lộ của Hoàng Văn Hào (đời thứ 6) và chỉnh lý bổ sung của Hoàng Văn Giang, Hoàng Thái Hòa, Hoàng Văn Sơn, Hoàng Văn Lâm và Hoàng Công Toản là các thế hệ hậu duệ đời thứ 6 họ Hoàng.
4.Theo lời kế của ông Hoàng Văn Bàn (đời thứ 5), bà Hoàng Thị Tính và Hoàng Thị Hiền (đời thứ 5) và ông Ma Văn Lùng cháu nội cụ Ma Văn Bất.
5. Tham khảo bản dịch của ông Bùi Thành Phần, tài liệu hướng dẫn Gia phả Việt Nam, đối chiếu với các giai đoạn và tư liệu lịch sử của dân tộc Việt xưa và nay.
.II. Về nguồn gốc họ Hoàng (1).
Theo Gia phả họ Hoàng tại Thái Bình-Nam Định-Hải Phòng (xem trang web http://hohoang.com/giapha/giapha.html) giải thích gốc tích họ Hoàng như sau:
“Nghiên cứu về nguồn gốc họ Hoàng, bộ Bách Tính Tầm Nguyên nói rằng: Dưới đời Phục Hy Thị, một nhà có tám anh em chia nhau nỗi người đi một phương, lập thành tám bộ lạc khác nhau. Có một người đến một chỗ thung lũng bạt cỏ làm ruộng. Trong đời Thần Nông Thị ngoài đó đã trở thành một bộ lạc có sức mạnh, có thế lớn nổi tiếng là người Hiên Viên. Bộ lạc này biết chế tạo và sử dụng vũ khí để đánh dẹp kẻ gấy hấn, gây dựng nên một bộ lạc hùng cường. Rồi cũng vì ý thức tìm về nguồn gốc, người Hiên Viên ghi lại bộ phát tích của Tổ tiên. Một trong tám anh em, họ dùng chữ Nhất là Một, và chữ Bát là Tám. Phá cỏ làm ruộng, họ dùng chữ Thảo là Cỏ và chữ Điền là Ruộng.
Bốn chữ: Nhất, Bát, Thảo, Điền đem sắp xếp gọn lại thành chữ Hoàng. Bộ lạc Hiên Viên dùng chữ Hoàng để làm Họ.
Sau này họ Hoàng xưng đế thay Thần Nông Thị gọi là Hoàng đế Hiên Viên. Hoàng đế là vua thứ Ba trong Ngũ Đế: Phục Hy Thị, Thần Nông Thị, Hoàng Đế, Đế Nghiêu, Đế Thuấn”.
Về gọi họ Hoàng thành Huỳnh:
Theo lịch sử ghi lại, để mở rộng bờ cõi, năm 1558 chúa Nguyễn Hoàng đã thực hiện cuộc Nam tiến đầu tiên sau khi trấn giữ Thuận Quảng, tiến chiếm đất từ đèo Cù Mông (bắc Phú Yên) đến đèo Cả (bắc Khánh Hòa) của Vương quốc Chăm Pa khi đó đã suy yếu rất nhiều, lập thành phủ Phú Yên. Cho tới khi ông mất (1613), giang sơn họ Nguyễn trải dài từ đèo Ngang, Hoành Sơn (nam Hà Tĩnh) qua đèo Hải Vân tới núi Đá Bia (Thạch Bi Sơn), gần đèo Cả, bây giờ là vùng cực nam Phú Yên, giáp tỉnh Khánh Hòa.
Để tránh phạm húy chữ Hoàng (tên gọi của chúa Nguyễn Hoàng), các dòng họ Hoàng khi di chuyển vào các tỉnh phía Nam tự gọi trật ra là Huỳnh. Vì thế họ Huỳnh cũng chính là họ Hoàng. Đó là một nguồn thông tin về họ Huỳnh; viết chữ Hoàng hay chữ Huỳnh là cùng một họ. Tuy nhiên, còn có nguồn thông tin khác cho họ Huỳnh bắt nguồn từ họ Hoằng (Thanh Hóa), họ Đặng…..(?)
III. Về sự tích giặc (đảng) cờ đen (2).
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia có ghi: Giặc (đảng) cờ đen tại Việt Nam do Lưu Vĩnh Phúc (1837 – 1917), tự Uyên Đình, là một quân nhân Trung Quốc thời kỳ nhà Thanh lập ra. Ông sinh ra ở vùng cực tây nam tỉnh Quảng Đông (Khâm Châu, nay thuộc Quảng Tây), giáp giới với Việt Nam và gần biển, thuộc giống Hakka (còn gọi là người “Hẹ”, gọi theo âm Hán Việt là “khách gia”, đó là lí do dân ta hay gọi người Tàu là “chú khách”).
Gia đình ông nghèo khổ, bản thân ông không biết chữ, cha mẹ chết không có áo quan chôn. Sống lang thang khắp nơi kiếm ăn, đến năm 21 tuổi, Lưu Vĩnh Phúc đến Nam Ninh xin làm thuộc hạ của Ngô Lăng Vân (tự xưng Ngô Vương), là dư đảng của Thái Bình Thiên Quốc.
Sau khi Ngô Lăng Vân bị giết (1863), Lưu Vĩnh Phúc xin với Ngô Côn (con trai và là người kế nghiệp Ngô Lăng Vân) cho tiến hành các cuộc viễn chinh cướp bóc bên Đại Nam (quốc hiệu Việt Nam từ thời vua Minh Mạng), cũng là để tránh sức ép của nhà Thanh. Dẫn theo 200 thuộc hạ thân tín, dùng một lá cờ màu đen làm kỳ hiệu. Năm 1865, Lưu Vĩnh Phúc vượt biên giới vào Đại Nam (Việt Nam). Đến khi Ngô Côn bị giết, dư đảng là Hoàng Sùng Anh (hiệu Cờ Vàng), Lưu Vĩnh Phúc (hiệu Cờ Đen), Bàn Văn Nhị, Lương Văn Lợi (hiệu Cờ Trắng) vẫn quấy nhiễu ở vùng Tuyên Quang, Thái Nguyên.(Hết lời trích)
IV. Họ Mạc (3) đổi thành Hoàng (chữ Nho 黄).
Về lịch sử, theo ông Hoàng Xuân Đồng viết về các dòng họ Hoàng-Huỳnh thuộc gốc Mạc cho biết: “ Năm 1592, Vương triều Mạc thất thế, Thăng Long thất thủ. Một bộ phận con cháu họ Mạc chạy lên Cao Bằng, Lạng Sơn…tiếp tục chống cự. Trước bước đường thất bại, trước nguy cơ bị tiêu diệt, người họ Mạc phải trốn chạy phân tán khắp nơi, đổi họ thay tên, ẩn mình lánh nạn. Đúng là: “Đời thay thế đổi, Đất lật Trời nghiêng, Ngôi Lê khôi phục, Vận Mạc đổi đời, là Hoàng, là Phạm, là Thái, là Tô…hoặc đổi họ thay tên ẩn mình theo họ Mẹ”
“Trong quá trình phải đổi họ thay tên, có một trong những quy ước là (theo chữ Hán) “Khử túc, bất khử Thủ”chính vì quy ước đó, có một bộ phận đổi Mạc thành Hoàng-chữ Hoàng chữ Mạc (theo chữ Hán) cùng có dấu (nét chữ) giống nhau. Riêng ở Cao Bằng, sau khi Mạc Kính Vũ thất thế (1677), triều Mạc chấm dứt, con cháu họ Mạc đã chuyển đổi họ để lánh nạn thành Hoàng, Phạm, Ma.”(hết lời trích)
Nếu là Hoàng chính, thì Hoàng hay Huỳnh khi viết bằng chữ Nho là 黃 sẽ phân biệt được. Hoàng hay Huỳnh (黃) là một tên họ ở Việt Nam.
Còn nếu là họ Hoàng Ngoại hay là Hoàng Mạc có nguồn gốc là họ Mạc thì dùng chữ 黄 kể từ sau khi nhà Lê chiếm lại ngôi từ nhà Mạc cho đến nay.
V. Về tên Làng Tứ Thông (4)
Cụ nội Hoàng Văn Bài là một trong bốn người ở 4 dòng họ khác nhau lập nên Làng Tứ Thông. Đó là, (1) họ Hoàng (ông Hoàng Văn Bài). Ông Hoàng Văn Bài sinh ra Hoàng Văn Văn, Hoàng Văn Nhân, Hoàng Văn Tài, Hoàng Thị Khẩm), (2) họ Ma (ông Ma Văn Bất). Ông Ma Văn Bất là anh chị em với cụ bà Ma Thị Sách (vợ cụ Bài), Ma Văn Sự và cụ Ma Văn Hán. Cụ ông Ma Văn Bất sinh ra ông Ma Văn Bình (có con là Sinh, Lùng, Quốc, Hạnh, Tý, Mão) và ông Ma Văn Yên (có các con là Cư, Tuy, Nhữ). Cụ Ma Văn Hán sinh ra bà Ma Thị Nguyên chồng là ông Ma Văn Cấn (có con là Doãn, Giáp, Bính, Canh, Điền, Sở, Trung), (3) họ Lương (ông Lương Văn……), (4) họ Ma (ông Ma Văn Cương). Ông Ma Văn Cương sinh ra ông Ma Văn Hiến, ông Ma Kim Ngọc, bà vợ ông Lương Minh Thảo. Ông Ma Văn Cương có anh trai là Ma Văn Phương sinh ra ông Ma Văn Thư và ông Ma Văn Phú. Bốn dòng họ trên đã lập nên Làng và được đặt tên là Làng Tứ Thông.
HoàngGia
(Tây Hồ-Hà Nội ngày 11-11-2011)

