Họ Hoàng trên núi Bà (Đen) – Tuyên Quang

B. HỆ THỐNG CÁC THẾ HỆ (ĐỜI)
HỌ HOÀNG Ở TỨ THÔNG VÀ LÀNG LẦM.
(Theo danh sách thống kê của ông Hoàng Văn Hào)

Nguồn gốc Tổ Tông-Gia Tộc họ Hoàng ở Tứ Thông và Làng Lầm là Nhánh tộc thứ họ Hoàng do cụ Hoàng Công Em từ thôn Rã Lá, xã Long Đống (Bắc Sơn, Lạng Sơn) di cư sang. Đối chiếu với thời gian lịch sử, cách nay khoang 146 năm (1865) đến 140 năm (1869).

Tính từ đó đến nay (Nhâm Thìn-2012) đã trải qua 8 đời hậu duệ định cư ở huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Lấy mốc từ hậu duệ đời thứ 7 (con của Đời thứ 6) gọi các thế hệ họ Hoàng trước đó sang định cư và lập nghiệp ở Sơn Dương như sau:
I. Đời thứ Nhất (Thủy Tổ) -Tính riêng con trai (1 người): (1) Hoàng Công Em

II. Đời thứ Hai (Thượng Tổ) -Tính riêng con trai (1 người)(1) Hoàng Công Dũng

III.Đời thứ Ba (Cụ Tổ)-Tính cả con trai và con gái (3 người):  (1) Hoàng Công Bài,(2) Hoàng Văn Thông (1881-1950), (3) Hoàng Thị Ghẻ (1890-1956)

 IV Đời thứ Tư  (Cụ Nội)-Tính cả con trai và con gái (9 người):

1.- Nhánh trưởng Tứ Thông: (1) Hoàng Công Văn, (2) Hoàng Văn Nhân (6/12/ÂL), (3) Hoàng Văn Tài, (4) Hoàng Thị Khẩm;

2 – Nhánh thứ Tuân Lộ: (5) Hoàng Thị Ước, (6) Hoàng Văn Thạch, (7) Hoàng Văn Kim (9/2/ÂL), (8) Hoàng Thị Hạc, (9) Hoàng Văn Chích.
V. Đời thứ Năm (Ông Nội)-Tính cả con trai và con gái (21 người):

1.- Cành ông Văn: (1) Hoàng Văn Bàn; (2) Hoàng Thị Phạn

2.- Cành ông Nhân: (3) Hoàng Văn Duyên (mất 30/9/ÂL), (4) Hoàng Thị Tính, (5) Hoàng Văn Hợp (mất 14/4/2001), (6) Hoàng Thị Hoan, (7) Hoàng Thái Long (hi sinh 29/5/ÂL);

3.- Cành ông Tài: (8) Hoàng Thị Tý (mất 2/12), (9) Hoàng Văn Sửu (mất 6/4/1991), (10) Hoàng Văn Dần (mất 24/10/Nhâm Thìn);

4- Cành ông Kim: (11) Hoàng Văn Chỉ, (12) Hoàng Thị Ho, (13) Hoàng Văn Thành (mất 2011);

5- Cành ông Chích: (14) Hoàng Thị Hiền, (15) Hoàng Thị Hậu, (16) Hoàng Văn Được (1962-1986), (17) Hoàng Văn Tuyển, (18) Hoàng Thị Hoa, (19) Hoàng Văn Hường (mất 2010) và (20) Hoàng Văn Tiến.
6. Cành ông Thạch: Hoàng Văn Mót  (21)
VI. Đời thứ Sáu (Bố)-Tính riêng con trai (39 người):

(1) Hoàng Văn Cao, (2) Hoàng Văn Bằng, (3) Hoàng Văn Giang,

(4) Hoàng Nguyên Hồng, (5) Hoàng Văn Hào, (6) Hoàng Văn Oanh;

*  (7) Hoàng Văn Hòa, (8) Hoàng Văn Hiệp, (9) Hoàng Văn Nghị,

* (10) Hoang Văn Sơn, (11) Hoàng Văn Lâm, (12) Hoàng Bình Trọng, (13) Hoàng Văn Báu (mất 1972) ;

*(14) Hoàng Thái Hải (25/10/1972), (15) Hoàng Thái Việt, (16) Hoàng Công Khải (1966), (17) Hoàng Văn Hoàn, (18) Hoàng Văn Tuấn (2010), (19) Hoàng Văn Toản;

* (20) Hoàng Công Mai, (21) Hoàng Công Minh, (22) Hoàng Công Khai ;

* (23) Hoàng Văn Cung, (24) Hoàng Văn Cấp,  (25) Hoàng Văn Việt, (26) Hoàng Văn Cảnh, (27) Hoàng Văn Giới, (28) Hoàng Văn Cành, (29) Hoàng Văn Sản;

* (30) Hoàng Văn Tính, (31) Hoàng Văn Nhân, (32) Hoàng Văn Lập, (33) Hoàng Văn Mạnh;

* (34) Hoàng Văn Quyết(2009), (35) Hoàng Văn Đoàn, (36) Hoàng Văn Tuyên,

* (37) Hoàng Văn Quang,

(38) Hoàng Văn Đạt (1997-2001), (39) Hoàng Văn Thức.
VII. Đời thứ Bảy (con):
Các con của Đời thứ 6.
VIII. Đời thứ Tám:
Các con của Đời thứ 7.

 Ghi chú : Trong danh sách chữ viết nghiêng là đã mất hoặc hy sinh.
***
Sơ bộ như trên về các thế hệ (đời) dòng họ Hoàng ở thôn Tứ Thông (xã Hợp Thành) và Làng Lầm (xã Tuân Lộ) huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang di cư từ Bắc Sơn-Lạng Sơn sang.                       

Tây Hồ-Hà Nội tháng 10 năm Tân Mão (11-11-2011)
(Sưu tầm, soạn thảo và chỉnh lý HoàngGia
Đăng trên website: hoanghong.net)

C. CÁC NGÀY GIỖ TRỌNG HÀNG NĂM
1. Gỗ Tổ họ Hoàng ngày 25 tháng 10 âm lịch.

Khu mộ Tổ họ Hoàng (5 ngôi mộ)  trên sườn núi Bà Đen, thôn Tứ Thông. Giỗ Tổ họ Hoàng dâng cúng lễ vật cho cả năm cụ. Đó là cụ Thủy tổ Hoàng Công Em và cụ bà Chu Thị Lập, cụ tổ Hoàng Công Dũng và cụ bà Nông Thị Nở, cụ ngoại Hứa Thị Tiền thân mẫu của bà Nông Thị Nở.
Hậu duệ con cháu của các Nhánh nội của cụ ông Hoàng Văn Bài và Nhánh cụ ông Hoàng Văn Thông phải thờ phụng và cùng góp giỗ, tiến hành dâng lễ cúng bái tại Khu mộ Tổ họ Hoàng. Con cháu cành ngoại cụ bà Hoàng Thị Ghẻ được mời về tham dự ngày giỗ trên.

2.Giỗ cụ Hoàng Văn Bài và Ma Thị Sách (cành trưởng)
Ngày 25 tháng 7 âm lịch hàng năm là ngày cúng giỗ Cụ ông Hoàng Văn Bài và Ma Thị Sách ở Tứ Thông và Cây Thị (Hợp Thành). Mộ hai cụ ở chân Núi Rộc Chiều, thôn Tư Thông.
Hậu duệ con cháu các cành của ông Hoàng Văn Văn, ông Hoàng Văn Nhân và ông Hoàng Văn Tài có trách nhiệm phải thờ phụng và tiến hành cúng giỗ hai cụ vào ngày trên. Con cháu cành ngoại của  bà Hoàng Thị Khẩm được mời tham dự.

3. Giỗ cụ Hoàng Văn Thông và cụ bà Nông Thị Y (cành thứ)
Ngày 30 tháng 11 âm lịch hàng năm là giỗ Cụ ông Hoàng Văn Thông và ngày 29 tháng 10 âm lịch hàng năm là giỗ cụ bà Nông Thị Y ở Thôn Bẫu, xã Tuân Lộ.
Hậu duệ  con cháu của các cành thuộc ông Hoàng Văn Thạch, ông Hoàng Văn Kim và ông Hoàng Văn Chích có trách nhiệm phải thờ phụng và cúng giỗ cho hai cụ vào những ngày trên. Cành ngoại các bà Hoàng Thị Ước  và bà Hoàng Thị Hạc được mời về tham dự.
Như vậy, trong ba ngày Giỗ trên, có một (01) ngày giỗ có liên quan đến Gốc Tổ họ Hoàng bắt buộc các thế hệ con cháu của hai Nhánh họ Hoàng ở Tứ Thông và Làng Lầm phải thờ phụng và tham gia. Còn hai (02) ngày giỗ của Cụ Hoàng Văn Bài (cành trưởng)  và cụ Hoàng Văn Thông (cành thứ) là ngày giỗ riêng của từng Nhánh ở Tứ Thông (Hợp Thành) và Làng Lầm (Tuân Lộ). Do đó, bắt buộc hậu duệ con cháu của từng Nhánh phải có trách nhiệm thờ phụng và tham gia. Còn con cháu các Nhánh khác không nhất thiết bắt buộc tham dự, trừ khi có lời mời.

4. Ngày giỗ các con của Cụ Hoàng Văn Bài và Hoàng Văn Thông.
Đối với Ngày Giỗ của các ông Hoàng Văn Văn, Hoàng Văn Nhân, Hoàng Văn Tài là con của Cụ Hoàng Văn Bài và Hoàng Văn Thạch, Hoàng Văn Kim…. là các con của Cụ Hoàng Văn Thông thì do con cháu  các cành chi thuộc riêng từng ông tự tổ chức thờ phụng và cúng giỗ.

Không thành nghi lễ bắt buộc con cháu các cành chi thuộc hệ ông khác phải tham dự, trừ khi có lời mời.
Trên đây là sơ bộ về trách nhiệm thờ phụng và cúng giỗ đối với Giỗ Tổ họ Hoàng, Giỗ tộc Nhánh và Giỗ gia tộc từng Cành Chi. Từ đó, con cháu các Cành Chi qui định chi tiết và cụ thể các ngày giỗ trong từng Cành Chi, sao cho phù hợp điều kiện kinh tế và đạo lý « Sống nhờ mồ mả, không ai sống vì cả bát cơm !». «Uống nước nhớ nguồn». «Tổ Công Tông Đức thiên niên thịnh ; Tử hiếu Tôn hiền ức tải vinh ».
(Theo hướng dẫn Gia phả Việt Nam.HG)

BÀI ĐỌC THÊM
VỀ TỔ TỔNG, CỘI NGUỒN!

Nhân ngày Giỗ Tổ họ Hoàng Hai mươi lăm Tháng Mười âm lịch hàng năm (25-10 âm). Xin có đôi lời với Tổ tông và con cháu các thế hệ trong họ. Người xưa thường nói:
Uống Nước nhớ Nguồn.
Cây có Gốc mới nẩy Cành xanh Ngọn.
Nước có Nguồn mới Biển rộng Sông sâu
Người ta Nguồn Gốc từ đâu ?
Có Ông Bà Cha Mẹ, sau mới có mình !
Điều đó, tóm lược lại là:

“Chim có Tổ, Người có Tông,
Như Cây có Cội, như Sông có Nguồn!”
Tức là Con Người phải có Tổ Tiên, Tông Giống, Dòng Họ như Chim có Tổ, như Cây có Cội và như Sông có Nguồn! Đó là văn hóa truyền thống, nền nếp gia phong có tính di truyền qua các thế hệ đối với Người Việt. Mỗi con người Việt Nam khởi nguồn từ cha mẹ, gia đình, làng rồi mới đến nước. Vì thế, khi lớn lên, đặc biệt lớn tuổi, đi xa bao giờ cũng tìm về cội nguồn “Tổ Công, Tông Đức”, nơi ông bà, cha mẹ, và gia đình sinh sống cùng dân làng (địa linh) lập nghiệp và sản sinh ra chính mình. Lẽ thường tình là vây! Chính bởi thế, Hoà thượng MẪN GIÁC mới viết:

“Mái Chùa che chở Hồn dân tộc
Nếp Sống muôn đời của Tổ Tông”.
Thật là thú vị về sự khai mở. Xưa nay mọi người chỉ biết “vào đình, vào Chùa” phải bỏ nón mũ. Nay hiểu thêm điều “huyền bí” tại sao phải bỏ nón mũ. Vì  Mái Đình, Ngôi Chùa là nơi thờ cúng “Hồn dân tộc”. Hồn  Sông, hồn Núi.“Hồn Dân tộc” đó chính là “Địa Linh-Sơn Thần-Nhân Kiệt” trong mỗi làng quê. Địa Linh-Sơn Thần-Nhân Kiệt được hội tụ dưới “mái Chùa”, “mái Đình” và các ngôi Đền, Am, Miếu thờ.  Từ mảnh đất Địa Linh-Sơn Thần đã hội tụ đủ “Hồn Dân tộc” nên mỗi làng quê, đã sản sinh ra những Con Người-Nhân kiệt (Tài Giỏi) và có nơi địa linh còn sinh ra Minh Chủ cứu Dân, giúp Nước.

Đình-Chùa-Đền chính là nơi hội tụ Tâm Linh của Sơn Thần, Thổ Địa, Sông Núi; đó là những nơi Linh thiêng và Ứng nghiệm nhất đối với cuộc sông của Con Người. Bởi đó là nơi hội tụ “Hồn Dân tộc-Hồn Sông Núi” hàng nghìn năm, làm chỗ dựa tinh thần cho Con Người trong mỗi làng quê. Vì thế, cho dù đi đâu, ở đâu trước khi đi và sau khi về, mỗi chúng ta cũng nên ghé thăm Đình Chùa Đền Miếu, thắp nén nhang lên ban thờ gia tiên và dâng lễ kính cáo Tiên, Phật, Thánh cầu cho “Quốc Thái Dân An”; bản mệnh, gia trạch, mổ mả và mọi sự yên lành; công việc hanh thông, thành đạt.
Đọc vế thứ hai của Hòa thượng Mẫn Giác viết:“Nếp Sống muôn đời của Tổ Tông” tức là Nếp Sống trong mỗi Gia đình, dòng họ do Tổ Tông truyền lại. Bởi thế, xưa các cụ thường nói: “Lấy vợ xem Tông, lấy chồng xem Giống”, hoặc “Con nhà Tông, không giống lông cũng giống cánh”. Cho nên: “Nếp Sống muôn đời của Tổ Tông” chính là dấu ấn văn hóa truyền thống, nền nếp gia phong, của dòng Họ-Tổ Tông-Gia Tộc trong mỗi gia đình Việt Nam. Vì thế, “Nếp sống” là văn hóa phi vật thể, là “bảo bối” thành đạt hay suy tàn của dòng họ, các thế hệ sau phải “kế thừa và phát triển”. Thế hệ nào không “kế thừa, duy trì và phát triển” dấu ấn văn hóa “nếp sống” của Tổ Tông Gia Tộc, dù là cố tình hay vô ý làm ngược lại “nếp sống muôn đời của Tổ Tông Gia Tộc ” thì sẽ gặp nhiều điều chẳng lành và muôn đời bị Tổng Tông Gia Tộc của trách. Chính vì thế, mới có câu ngạn ngữ:
Sống nhờ Mồ mả,
Không ai sống, vì cả Bát cơm”.

Hay câu: “Âm Dương hoà hợp”, “Âm phù, Dương trợ!” để nhắc mỗi chúng ta nên hiểu và biết phát huy, vun đắp “Hồn dân tộc” và giữ gìn:“Nếp Sống muôn đời của Tổ Tông Gia Tộc”.
Nhà thơ William Blake (1757-1827) của nước Anh khi nói về lịch sử và xã hội có viết:
“Nhìn thấy Vũ Trụ trong Hạt Cát,
Và Thiên đường trong Bông Hoa dại,
 Nắm cái Vô Hạn trong Lòng Bàn tay,
Và cái Vĩnh Cửu trong Một giờ!”.
Ngẫm xem mới thấy, triết lý của bài thơ thật khúc triết, rõ ràng  và trong sáng về quan hệ Trời-Đất-Con Người. Đi tìm cuội nguồn-Dòng họ-Tổ tiên Con Người, không ai bay lên Trời-vào Vũ trụ. Trái lại, phải đào xuống đất, tìm “trong hạt cát” mới biết được “ông cha-tổ tiên xưa”  đã từng tồn tại và sống như thế nào. Mới biết lịch sử-văn hóa và cội nguồn Con Người-Tổ Tiên-Tông Giống.  Đó là nền tảng văn hóa, không viển vông được!

Cuộc đời đang thiếu cơm ăn, áo mặc hãy lao động kiếm ăn đi, đừng mơ tưởng viển vông về một thiên đường nào đó. Thiên đường chỉ là “bông hoa dại”, sớm nở tối tàn. Con Người biết dựa theo và lợi dụng tính khí “thất thường” của Trời Đất để lao động, làm ra của cải nuôi sống đồng loại, đó là Thiên đường. Thiên đường là Nền tảng Văn hóa duy trì Nòi Giống, Dòng Họ, Tổ Tông. Thiên đường là sự ổn định cuộc sống, mọi người có ăn, có mặc, học hành, con-cháu phát triển. Thiên đường là cái ta có, do chính ta làm ra.
Trời Đất là vô hạn. Con Người có hạn. Con Người chỉ hiểu và biết được từ không đến có, từ ít đến nhiều; không hiểu biết được tất cả. Con Người không thể « nắm được tất cả cái vô hạn » của Trời Đất. Vì thế, hiểu, biết và nắm được cái gì “vô hạn” của Trời Đất phải cho chắc; phải hiểu thế nào là đủ, là tốt; phải biết quí trọng cái đã “nắm được trong lòng bàn tay của ta”; không tham lam để biết tất cả, nắm tất cả cái vô hạn của Trời Đất và Nhân loại.
Con Người chớ nên huyền ảo, cho rằng mọi cái ta chiếm đoạt được của Trời Đất-Thiên Hạ về tiền bạc, địa vị, quyền lực,  kể cả mạng sống là “vĩnh cửu”, thuộc về ta. Tất cả những thứ đó, về tiền bạc, địa vị, quyền lực, mạng sống đời người chỉ “trong một giờ”, thậm chí “một giây” thành mây khói, thành đống đổ nát vô tri, vô giác trả lại Trời Đất và trở về cát bụi!.
Như vậy, Chim phải có Tổ, Cây phải có Gốc, Sông phải có Nguồn và Con Người phải có Tổ Tiên, Tông giống, dòng Họ, Gia tộc. Con người và đời người không thể tách rời lịch sử, văn hóa và xã hội quá khứ của Tổ Tiên, dòng Họ. Con Người hiện tại tốt xấu, thành đạt hay suy tàn là phản ánh quá khứ của lịch sử dòng họ; là gương soi phản chiếu hình ảnh phát triển hay suy tàn về huyết thống và tâm linh-âm phần ngàn xưa của dòng Họ, Tổ Tông, Gia Tộc, Ông Cha truyền lại cho muôn đời sau.
Những lời nói Người Xưa thuộc về phần Tâm Linh-Cái không nhìn thấy được của cuộc sống Con Người hiện tại. Nói theo ngôn ngữ hiện đại thì đó là “Phần mềm” của máy tính, ta không nhìn thấy và hình dung hết được “sự kỳ diệu” của nó khi hiện lên “màn hình”. Màn hình của mỗi cuộc đời Con Người là các thế hệ con cháu thành đạt hay suy tàn. Vì thế, mỗi chúng ta không nên quên và coi thường về sự diệu kỳ Tâm Linh-Phần Mềm-Cõi Âm  của mỗi Gia Tộc ngàn đời lưu truyền cho hậu duệ đời sau.
Sự thành hay bại của mỗi cuộc đời nhiều khi do chính “Phần mềm-Tâm Linh-Cõi Âm” quyết định. Bởi, “Âm có phù”, thì “Dương mới phát” và cuộc sống mới khỏe cành xanh lá, nhiều nụ và đắc trái. Cuộc đời mỗi Con Người, dù tài cao, trí lớn đến đâu, nếu không chú ý, chăm lo mồ mả-thờ cúng Tổ Tiên cho đến nơi, đến chốn thì không thành đạt được hoặc có phát, rồi cũng có ngày suy tàn. Bở thế, sự thăng trầm của cuộc đời mỗi Con Người, Hồng Phúc mỗi gia đình-dòng họ, gắn liền với Phần Âm và do Cõi Âm Tổ Tiên Gia Tộc có phù hay ngoảnh mặt đi mỗi khi thời cơ đến là phần quyết định chính.
Tìm hiểu cội nguồn là làm sống lại quá khứ lịch sử-nguồn gốc Tổ Tiên, Nòi Giống, Dòng Họ, Gia Tộc trong mỗi gia đình và từng Con Người. Từ đó mà ứng xử theo đúng qui định tại Tộc ước họ Hoàng ghi ở Điều 8 “Chăm lo Mồ Mả…Tổ Tiên và cúng bái đầy đủ” và Điều 12 “Tránh xúc phạm Tổ Tiên…Hãy noi gương và tiếp bước cha anh” của Gia Tộc họ Hoàng.
Hãy nhớ  câu ngạn ngữ: “Con hư tại Cha, cháu hư tại Ông Nội” mà chăm lo  mồ yên mả đẹp đối với Ông Cha Tổ Tiên-Tâm Linh của dòng họ Hoàng cho chu đáo và vẹn toàn.
Đôi điều suy nghĩ về Tổ Tông, Cội Nguồn nhân ngày Giỗ Tổ họ Hoàng (25/10 âm lịch). Với tấm lòng thành kính «uống nước nhớ nguồn » xin dâng nén tâm hương, kính mong Tổ Tiên họ Hoàng ở thôn Tứ Thông, xã Hợp Thành và Làng Lầm xã Tuân Lộ, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang chấp nhận lời tri ân của của các thế hệ hậu duệ họ Hoàng hôm nay !
Kính cáo Tổ Tiên!

 Hoàng Nguyên Hồng (Hậu duệ đời thứ 6).
Viết tại Tây Hồ-Hà Nội, ngày 15/11/2010
Chỉnh sửa, bổ sung tháng 10/2016